Partition Buồn Trông Format - Pdf
Traduction Française et Anglaise ( En Bas de Page )
CD Kim Vân Kiều 3 - Quyến Gió Rủ Mây
https://www.youtube.com/watch?v=E-KFbjH-Y8U&list=UURuamTfHI51hDifqPxXqQ8g
Buồn Trông
CD-KVK305 - Từ câu thơ 1047 đến câu 1072
Thơ : Nguyễn Du (1766-1820).
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Paris, le 26 Janvier 2008
Ca Sĩ : Quỳnh Lan
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
*
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
*
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh,
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi,
Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu,
Ngậm ngùi rủ bức rèm châu,
Cách tường nghe có tiếng đâu họa vần,
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng.
*
Nghỉ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh,
Bóng nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng chàng cũng ra tình đeo đai,
Than ôi sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây,
Giá đành trong nguyệt trên mây,
Hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa,
Tức gan riêng giận trời già,
Lòng nầy ai tỏ cho ta hỡi lòng,
*
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
*
Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi,
Song thu đã khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh,
Nghỉ người thôi lạt nghỉ mình,
Cảm lòng chua xót lại tình bơ vơ,
Những là lần lữa nắng mưa,
Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi,
Đánh liều nhắn một hai lời,
Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
*
Mảnh tiên kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo đáp nỗi thân lạc loài,
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang,
Trời tây lảng đãng bóng vàng,
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi,
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành Tích Việt có hai chữ đề,
Lấy trong ý tứ mà suy,
Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng ?
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.
Un regard triste
( Buồn Trông )
CD-KVK3-05, de vers 1047 à vers 1092.
Poème : Nguyen Du (1766-1820).
Musique : Quach Vinh-Thien. Paris, le 26 Janvier 2008.
Traduction : Nguyen Van Vinh
Voix : Quynh Lan
Tristement, elle regarda le port de mer à la tombée de la nuit.
Et se demanda à qui étaient toutes ces barques dont les voiles se montraient et s’éclipsaient alternativement à l’horizon lointain.
Tristement, elle regarda l’onde que le fleuve venait de déverser dans la mer.
A sa surface des fleurs s’éparpillaient dans tous les sens. Elle se demanda où allaient toutes ces fleurs.
Tristement, elle regarda encore la vaste plaine aux herbes un peu fanées.
Le pied des nuages et la surface de la terre se confondaient dans un même fond bleu-clair.
Tristement, elle regarda le vent qui soulevait des tourbillons de la baie.
Les vagues faisaient un grand vacarme autour du siège où elle était assise.
Tout autour d’elle c’étaient des rivières et des montagnes étrangères.
Les souffrances de l’exil lui inspirèrent alors quelques vers.
Ennuyée, elle fit tomber le rideau de perles qui garnissait sa fenêtre.
A ce moment de l’autre côté du mur se fit entendre la voix de quelqu’un qui récitait un poème composé sur les mêmes rimes. Un jeune homme dans toute la fleur de l’âge.
Bien peigné et habillé élégamment. Elle pensa avoir affaire à quelque lettré de race.
Renseignement pris c’était Monsieur So Khanh. Il avait aperçu la belle silhouette de Kieu à travers le store. A la regarder il s’était épris d’elle. Comment cette beauté unique dans le pays ce parfum céleste. A pu s’égarer de son monde et venir s’échouer en ces lieux.
C’est un trésor d’une telle qualité qu’il ne devrait de découvrir que dans la Lune ou sur quelque beau nuage inaccessible. Fleur unique, quelle déchéance, Ô fleur.
Mon cœur, ce cœur qui souffre qui donc veut bien me le comprendre, ô mon cœur.
Si la belle veut bien seulement apprécier ma bravoure. Je me ferai fort de la libérer de sa prison sans aucun effort. Kieu avait déjà fermé les volets de sa fenêtre mélancolique.
Que ses oreilles entendaient encore les échos de ces paroles engageantes.
Sa pensée se porta sur l’homme qui venait de les prononcer puis revint à elle-même.
Elle fut touchée de cette compassion et se sentit moins abandonnée.
Les jours de soleil avaient succédé à des jours de pluie.
Elle se demandait quand devait finir pour elle cette triste vie d’aventures.
Elle prit alors tout son courage et dit quelques mots au galant inconnu.
Pour le prier de tendre sa main généreuse à celle qui se noyait.
Sur un bout de papier à lettre elle lui confia toute son histoire.
L’accomplissement de son devoir de reconnaissance envers les parents et sa triste aventure dans ce milieu infâme. Dès que le matin du jour suivant eut dissipé les brouillards de la nuit.
Elle envoya cette missive à son destinataire. A l’accident la clarté jaune du jour finissant commençait à devenir confuse. Lorsque la réponse de l’inconnu arriva. Elle ouvrit pour la lire cette lettre écrite sur du papier orné de fleurs. Et n’y trouva inscrits que ces deux caractères Tich Viet.
Ayant mis toute son intelligence toutes ses facultés de déduction à deviner cette énigmatique missive Kieu comprit. Le rendez-vous est pour le 21è jour du mois l’heure du chien. N’est-ce pas ? Les oiseaux du soir commençaient à rentrer un à un dans la forêt.
A travers les camélias déjà l’on voyait apparaître la lune ne brillant plus que par la moitié de son disque.
Kiêu mournfully looked at the sea pot plunged in the dim light of dusk.
Far off, someone’s sail seemed to be dancing vaguely on smooth waves. The gloomy foaming billows appeared before her eyes as if covered with drifting flowers bound for an unknown horizon. Fields of withered grass spread sadly up yonder. Land and horizon mixed with each other, forming a bluish color. Sorrow invaded her heart as winds lashed against the bay. The flat noise of waves echoed endlessly all about. Feeling so forlorn among these unknown waters and mountains, Kiêu improvised a few vesicles about the suffering of her exile. Deeply affected, Kiêu was going to drop the pearl curtain when an unknown voice rose from the other side of the petition, reciting a poem composed of the same rhymes. Through an opening, Kiêu saw a young man in the prime of spring, dandyish and harmoniously dressed. This man must come from a blitery family, Kiêu thought. She inquired about his name and one replied that he was called So Khanh. The stranger seemed to fall in love with the young girl immediately after he caught a glimpse of her silhouette through the curtain.
Why how could such a queenly beauty, such a heavenly perfume be lost in this place? He exclaimed aloud. How regretful it is indeed. This treasure should be enthroned on the moon or on a cloud instead, poor flower. How could you come to such a downfall? I already feel angry at the injustice of the Old God. Who could help you understand me and the inmost sentiments in my heart? Oh graceful one. Oh pure one. If you knew my bravery, I would break down the bars and get you out of your cage easily.
Kiêu had already closed the outer shutters of the gloomy door but the echo of the firm promises still rang into her ears. She thought of the stranger then of herself. His words of compassion seemed to go deep into her heart and made her less forlorn. If I continue to wait from one day to another, Kiêu said to herself, when does my life in this dusty and windy world come to an end? Making up her mind, she took the risk and wrote a few lines to the young man, imploring him to stretch his generous hands to rescue her out of this hopeless situation. She included in the paper everything that had happened to her, from her act of gratitude toward her parents to her sad adventure in this house of shame. The next day, as soon as the last haze was dispersed and day was beginning to dawn, she had a messenger deliver the letter to her gallant knight. The west horizon was still colored with yellow beams when the man’s answer came in. She opened the letter and found two words “Tich” and “Viet” clearly written on a page adorned with an apricot flower. Kiêu pondered over and succeeded in deciphering these secret words which meant. I’ll come and meet you on the twenty-first o’clock. The evening birds one by one, started flying back to the woods. The late moon had appeared, half-concealing itself behind a bunch of camellia-lowers.